Thân
thế, sự nghiệp
của học giả Petrus Trương
Vĩnh Ký
Học
giả Trương Vĩnh Ký qua đời đến nay đã tròn 114 năm (1898-2012). Nhưng cuộc đời
và sự nghiệp của ông đã được nhiều thế hệ học giả xưa và nay quan tâm nghiên
cứu trên nhiều khía cạnh..
Phải
chăng cái cốt lõi chính là những gì ông
đã cống hiến cho đất nước, cho dân tộc trên mọi lĩnh vực học thuật và
sáng tác, góp phần đổi mới nền văn hóa Việt Nam từ Hán Nôm của thời trung cận
đại sang một nền quốc học hiện đại. Do vậy tuy ông mất đi, nhưng âm hưởng của
ông trên lĩnh vực văn hóa học thuật vẫn còn vang vọng mãi.
Thật vậy, Petrus Ký chính là người đã “khai đường mở lối, khai hóa cho dân ta”.Đó là:
1) Dùng chữ Quốc Ngữ thay thế chữ Nôm và
chữ Hán trong việc biên khảo, trước tác,
2) Viết câu văn xuôi thay lối văn biền
ngẫu của các nhà nho,
3) Xây dựng nền học thuật mới tổng hợp
văn hóa Á Đông và văn minh Tây phương thay thế nền học thuật cũ của nho gia,
4) Làm báo theo đúng ý nghĩa tờ
báo của Tây Phương. Ông Tổ của nghề báo
|
I.
Thân Thế :
Học giả Petrus Ký
Trương Vĩnh Ký sinh ngaøy 6 tháng 12
năm 1837 – 1 tháng 9 năm 1898 năm Đinh
Dậu là năm Minh Maïng thứ 17 tại ấp Cái Mơn, xã Vĩnh
Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre.
Lúc nhỏ có tên là Trương
Chánh Ký. Sau đó, theo đạo Công giáo nên đổi chữ đệm Minh thay là Vĩnh nên có tên Trương Vĩnh Ký, hiệu Sĩ Tãi, tên thánh: Jean Baptiste Peùtrus Trương Vĩnh Ký viết tắt Pétrus Ký,
tiếng Anh là Peter
Ông là con thứ ba của Lãnh binh
Trương Chánh Thi. Mẹ là bà Nguyễn Thị Châu..
* Lên 5 tuổi Trương Vĩnh Ký được đi học chữ Hán, do thầy đồ tên là
Học dạy tại Cái Mơn. Vốn tư chất thông minh xuất chúng nên ông học chữ Nho rất giỏi. Ông
đọc, viết thông thạo hiểu rõ nghĩa lý những sách mà mình đã học. Đó là dấu ấn
đầu đời với chú bé Trương Vĩnh Ký về đạo lý thánh hiền phương đông (Khổng
Mạnh cương thường tu khắc cốt)
* Năm ông 8 tuổi, thân phụ
ông được triều đình cử đi sứ sang Cao Miên rồi mất ở bên ấy. Cố Tám khuyên mẹ
ông cho ông cải đạo Công giáo. Ông học chữ quốc ngữ và có tên thánh như đã nói
ở trên
2. Ông Tám mất, Linh mục Long thay và cho ông học chữ La tinh,
ở nhà giảng vừa mới thành lập là nhà thờ Cái Nhum bây giờ (1846).
*
11 tuổi 1848, Cố Long đưa Pétrus Ký
sang học tại Chủng viện Pinhalu ở Phnom Penh, Cao Miên (Campuchia),nơi đây có
nhiều người bản xứ nên ông lân la và học được các thứ tiếng Lào, Myanma, Tàu
*
13 tuổi 1851
Năm 1851, trường này chọn 3 học sinh xuất sắc, trong số đó có
Pétrus Ký, để cấp học bổng đi du học tại Chủng viện Dulama ở Pénang thuộc
(Malaysia). Đây là một trường chuyên đào tạo các tu sĩ cho vùng Viễn Đông...
.Ông học tiếng Mã Lai, Ấn Độ, Anh, Pháp,
Nhật Bản, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thái Lan...
Năm 21 tuổi (1858),
Trương Vĩnh Ký đang học đến năm thứ 6, và chỉ còn một năm nữa
là tốt nghiệp để được thụ phong chức linh mục. Nhưng vào lúc giữa năm, ông phải
vội vàng về nước vì được tin người mẹ hiền qua đời.
Pétrus Ký trở về quê hương Cái Mơn giữa
lúc Pháp đem quân vào chiếm Việt Nam, bắt đầu từ Đà Nẵng (ngày 1 tháng 9 năm
1858), rồi Sài Gòn (ngày 17 tháng 2 năm 1859), đến Gia Định, tiếp theo là việc
mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.. Vì thế, việc cấm đạo công giáo cũng
diễn ra gay gắt hơn. Lúc ấy, Pétrus Ký phân vân rồi quyết định không trở lại
chủng viện nữa.
II. Sự
nghiệp:
-
20/02/1860: Khoâng ôû ñöôïc queâ nhaø laø Caùi
Môn,
Và để tránh bị bắt bớ, Trương Vĩnh Ký chạy lên Sài Gòn
vào tá túc nhà vị giám mục người Pháp Lefèbre, và được ông này giới thiệu làm
thông ngôn cho Jauréguiberry vào ngày 20
tháng 12 năm 1860.
- Năm 1861: lập gia đình, thành hôn với một khuê môn đài các Vương
Thị Thọ, con gái của hương chủ làng Nhơn Giang (Chợ Quán ngày nay) -
- Năm 1862 dạy tại trường thông ngôn và theo sứ
thần Pháp ra Huế nghị hòa- ---- Năm 1863:
làm thông ngôn cho sứ thần Phan Thanh Giản sang Pháp xin chuộc 3 tỉnh miền Đông
Nam Kỳ .Sang
Pháp, Pétrus Ký cùng phái đoàn nhà Nguyễn được triều kiến Napoléon III, gặp
nhiều nhân vật tên tuổi thuộc nhiều lãnh vực khác nhau (trong đó có Paul Bert).
Ngoài ra, ông còn được sang thăm Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Ý và được yết kiến
Giáo hoàng tại La Mã.
-
Năm 1865: xin thành lập tờ báo quốc ngữ đầu
tiên là Gia Định báo
1868
: Làm chủ bút tờ "Gia Ðịnh Báo" và tờ "An Nam Chính trị và Xã
hội"
-
Từ 1866 đến 1868: ông thay
thế linh mục Croc làm hiệu trưởng Trường Thông ngôn Sài Gòn
-
Năm 1869: làm thông ngôn cho sứ thần Tây Ban
Nha ký thương ước. Ngày 1 tháng 1 năm 1871, Trường Sư
phạm (École normale) được thành lập, Pétrus Ký được cử làm hiệu trưởng.
-Ngày 1 tháng 4 năm 1871,
Pétrus Ký được Pháp phong hạng nhất huyện (hàm), được cử làm thư ký Hội đồng
châu thành Chợ Lớn.
- Năm 1873,
Pétrus Ký được giao nhiệm vụ điều hành trường Tham biện Hậu Bổ (Collège des
administrateurs stagiaires), dạy Việt và Hán văn và cũng bắt đầu viết sách.
- 07/05/1883, ông được
Hàn Lâm Viện Pháp phong hàm Viện sĩ (Officier d'Académie).
-Năm 1886, Paul Bert - nghị sĩ, hội viên Hàn lâm, bác học gia sinh vật học -
được cử sang Đông Dương làm khâm sứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Paul Bert bèn mời
Trương Vĩnh Ký ra Huế giúp việc.
Tháng 06/1886:
Vua Đồng Khánh phong chức Cơ mật viện tham tá, sung Hàn lâm viện Thị giảng học
sĩ
- 11/11/1866:
Người xưa từng nói,
"Tấn vi quan, thối vi sư". Cụ cáo bệnh từ chức về lại Sài Gòn dạy học tại trường Hậu Bổ, trường Thông ngôn
và viết sách
-Năm 1887, sau khi đi công tác
ở Bangkok để giải quyết vấn đề giữa Thái Lan và Đông Dương, ông nghỉ hưu. ,
Pétrus Ký gần như thất nghiệp
Năm 1888, trường Thông ngôn đóng cửa .Ông xuất bản tạp
chí tư nhân Thông Loại Khóa Trình (Miscellanées) được 18 số (1888 - 1889).
- Pétrus Ký qua đời vào ngày 1
tháng 9 năm 1898, hưởng thọ 61 tuổi
Mộ phần và nhà ở khi xưa của
ông (nay là nơi thờ phụng ông), hiện nằm nơi góc đường Trần Hưng Đạo và Trần
Bình Trọng thuộc Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh.
Chức vụ, huân huy chương
Không những Trương Vĩnh Ký
là một nhà văn tiền phong của nền văn học chữ quốc ngữ mà ông còn là một học
giả rất nổi tiếng. Trong quá trình hoạt động, ông đã được nhận các chức việc và
huân huy chương:
* Năm 1874, được phong giáo sư ngôn ngữ Á Đông, vì
Pétrus Ký đã thông hiểu 26 sinh ngữ trên thế giới.
* Trong cuộc bầu chọn “ Toàn Cầu Bác Học Danh Gia” vào năm 1874,
Pétrus Ký đã được bình chọn đứng hàng thứ 17 trong 18 “ Thế giới Thập Bát Văn
Hào”.
* Vua Đồng
Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm viện Thị giảng học sĩ.
* Vua Khải Định ban hàm Lễ Bộ Tham Tri.
* Vua Bảo Đại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư.
Văn Nghiệp:
Ông viết nhiều sách tới 3 chữ số thời
bấy giờ ít ai làm được như dịch thuật, khảo cứu và sáng tác, để lại 118 tác
phẩm lớn nhỏ, góp phần vào việc phổ biến chữ Quốc Ngữ đối với dân tộc
Đó là:
·
Abrégé de grammaire annamite (Tóm lược
ngữ pháp An Nam)
·
Kim Vân Kiều (bản phiên âm ra chữ quốc ngữ
đầu tiên)
·
Cours de langue annamite (Bài giảng
ngôn ngữ An Nam)
·
Voyage au Tonkin en 1876 (Chuyến đi ra Bắc Kỳ năm Ất Hợi, 1786)
·
Guide de la conversation annamite (Hướng dẫn
đàm thoại An Nam)
·
Phép lịch sự An Nam (Les convenances et les civilités annamites)
·
Lục súc tranh công
·
Cours de la langue mandarine ou des caractères chinois (Bài giảng tiếng quan
thoại hay chữ Trung Quốc)
·
Cours d'histoire annamite (Bài giảng
lịch sử An Nam)
·
Dư đồ thuyết lược (Précis de géographie)
·
Đại Nam tam thập nhất tỉnh thành đồ
·
Cours de littérature annamite (Bài giảng
văn chương An Nam)
·
Cours de géographie générale de l'Indochine (Bài giảng địa lý tổng quát Đông
Dương)
·
Đại Nam tam thập nhứt tỉnh địa đồ
Grand Dictionnaire
Annamite-Français (Đại tự điển An
Nam-Pháp), v.v...
1875 : Xuất bản "Kim Vân Kiều truyện" của Nguyễn Du, "Sử
Ký An Nam"
1881 : Thu thập các bài viết, cho ra đời cuốn "Chuyến đi Bắc
Kỳ" năm Ất Hợi
1884 : Xuất bản "Việt - Pháp" từ điển
1887 : Xuất bản "Việt - Pháp" từ điển lần 2
Hiện
còn nhiều trước tác của Trương Vĩnh Ký đã bị thất lạc, không còn đầy đủ hoặc
nằm ở thư viện nước ngoài.
Về sách báo, biên soạn,
trước tác của ông đủ mọi lãnh vực văn hóa và sự nghiệp của ông nói chung và sự
nghiệp văn học nói riêng, ông đã thành công rực rỡ
Nhưng
về mặt khác ông cũng gặp nhiều trắc trở trên con đường chính trị bất đắc dĩ
này. Hay tin Pétrus Ký, một con người tài giỏi, sẽ ra làm việc
với Pháp, một số quan lại nhà Nguyễn đâm ra nghi kỵ ông. Nhưng sau nhiều toan tính, ông
nghĩ rằng phải làm việc để giúp đỡ đồng bào, nhất là lúc ấy, Pháp và Nam triều
chưa hiểu nhau, chưa thành thật với nhau. Pétrus Ký đã mượn câu cách ngôn Latinh
"Ở với họ mà không theo họ" ("Sic vos non vobis"), Mặc dù làm việc cho thực dân Pháp,
nhưng khi sưu tầm và chú thích bản Gia Định thất thủ vịnh,
Trương Vĩnh Ký vẫn gọi họ là “giặc”.
Và
câu ghi trên cửa nhà mồ bằng tiếng Latinh: "Miseremini Mei Satem Vos
Amici Mei" (Xin hãy thương hại tôi, ít ra là những bạn hữu của tôi).
Bình luận
1. Nhà văn Sơn Nam:
Ông Trương Vĩnh Ký người ở miền Nam không bao giờ khinh
rẻ ông. Ông không gia nhập Pháp tịch; Đêm ngày lo đặt sách này dịch sách kia
cho kẻ hậu sinh dễ học. Thiệt là quan thầy của cả nước và Nam Kỳ...
Ông Trương vĩnh Ký còn chú ý đến độc giả bình dân, lời
văn theo lời ăn tiếng nói thông dụng lúc bây giờ. "Chuyện đời xưa"
của ông hãy còn được nhắc nhở[14].
2. Giáo sư Thanh Lãng:
Nhờ ông Trương Vĩnh Ký câu văn Việt được giải phóng khỏi
những xiềng xích chữ Hán. Chủ trương của ông chính là “cách nói
tiếng An Nam ròng” và viết “trơn tuột như lời nói”.
3.
Nhà nghiên cứu
Lê Thanh:
Ông suốt đời được giữ bộ
quần áo Việt Nam và suốt đời là một người Việt Nam thuần túy
4. Nhà nghiên cứu Huỳnh Minh: Nếu cụ Võ Trường Toản là "Hậu tổ" của
Nho học ở đất Gia Định thì cụ Trương Vĩnh Ký là bậc tiền hiền của chữ quốc ngữ
trong toàn cõi đất Việt.
5. Học
giả Nguyễn Văn Tố tóm tắt sự nghiệp của
Trương Vĩnh Ký gọn trong 3 tiếng Bác
học, Tâm thuật, Khiêm tốn
6. Học giả Vương Hồng Sển:
Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của
là hai ông minh triết bảo thân, gần
bùn mà chẳng nhuốm mùi bùn, không ham "đục nước béo cò" như ai, chỉ
say đạo lý và học hỏi, sống đất Tào mà lòng giữ Hán, thác không tiếng nhơ, thấy
đó mà mừng thầm cho nước nhà những cơn ba đào sóng gió còn hiếm người xứng danh
học trò cửa Khổng.
III. Lời
kết:
Tóm lại như trên đã nói:
- Thế giới vinh danh ông: thứ 17 trong
18 (thập bát) văn hào thế giới thế kỷ thứ 19.
- Ông là nhà giáo dục học, ngôn ngữ
học, nhà khảo cứu văn hóa tiêu biểu bậc nhất VN.
- Số đầu sách gồm 3 chữ số: 118 tác
phẩm văn học: lịch sử, địa lý, từ điển, dịch thuật.
- Ông là ông tổ chữ quốc ngữ và tổ nghề
báo. Ông được ghi tên vào bách khoa Từ điển Larousse và Giáo sư Viện sĩ Pháp.
Thông thạo trên 20 ngoại ngữ..
Qua thân thế, sự nghiêp Cụ Petrus
Ký, cùng các nhận định của các nhà phê bình, các học giả ở trên, cho ta thấy Cụ
là tấm gương của lòng yêu nước thương dân, muốn đem tinh hoa của xứ người để
khai hóa và giúp đỡ dân tộc mình. và tính cách của cụ - một con người đi khai hóa nhưng không bị đồng hóa, "ông nói
viết tiếng Tây nhưng lúc nào ông cũng áo dài khăn đóng, chỉn chu của một người
Việt Nam lúc bấy giờ". Có thể nói ông là một tấm gương tiêu biểu cho thời
đại mở của, đổi mới ngày nay .
Vậy chúng ta và thế hệ sau này phải làm gì để tưởng nhớ
và vinh danh ông - một nhà bác học, nhà thông thái lỗi lạc.
Trước
đây để tưởng nhớ ông, người ta đúc tượng ông, một người nho nhã mặc quốc phục,
đầu bịt khăn đống, tay cầm quyển sách, tượng đặt gần dinh Thống Nhất bây giờ.
Tại Sàigòn, trước đây, Bộ
Giáo Dục dành một trường Trung Học Lớn mang tên ông, Trường Trương Vĩnh Ký nằm
cạnh Trường Đại Học Khoa Học Sàigòn.
Ngày nay, tại quê hương ông ngoài nhà và bia tưởng niệm ông,
Năm 2009, trường trung học Chợ Lách, Bến Tre được đổi lại tên THPT Petrus Trương Vĩnh Ký.
Hơn thế nữa trong Sách giáo khoa tiếng Việt lớp 3 tập 2
trang 37 có bài dạy về nhà thông thái
Petrus Ký.
Và tại mảnh đất Bình Dương này, để tưởng nhớ và tôn vinh
ông : Một ngôi trường mang tên ông - trường Trung tiểu học Petrus Ký Bình Dương
đã được thành lập cách nay khá lâu. Là
học sinh Petrus Ký, mong các em noi
gương Người : Học tập chuyên cần -
Hết lòng cống hiến, và luôn xứng đáng là học trò của ngôi trường mang tên một
danh nhân thế giới.
Người viết :
Thầy Trần Văn Sùng
Cựu giáo chức
08/12/2012
CA NGỢI
NHÀ BÁC HỌC
TRƯƠNG VĨNH KÝ
Cách
đây hai thế kỷ
Ở xứ cù
lao Minh
Hiền
tài Trương Vĩnh Ký
Làm rạng danh nước mình
Thông
minh từ thuở nhỏ
Học
hành rất siêng năng
Vượt
qua nhiều khốn khó
Gian
lao quyết đạp bằng
Biết
hăm sáu ngoại ngữ
Tác
phẩm viết hơn trăm
Một
trong mười tám vị
Bác học
lừng tiếng tăm
Năm
châu cúi đầu chào
Bốn
biển nghiêng mình kính
Thế kỷ
thứ mười chín
Việt
Nam quá tự hào
Xin đội
ơn công đức
Người
cha Trương Chánh Thi
Xin đội
ơn dưỡng dục
Người
mẹ Nguyễn Thị Châu
Sanh
tặng đời hồng phúc
Ngôi
sao sáng diệu kỳ
Vinh
danh Pétrus Ký
Ai con
Rồng cháu Tiên
Cùng
thắp hương tưởng niệm
Cùng
chung lòng tâm nguyện
Đi theo
bước thánh hiền
Rạng rỡ
giống Rồng Tiên
An Điền ngày 6/12/2012
Nguyễn Thị Hương
CLB thơ Bến Cát